DIC-Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Điện Biênhttp://dic.gov.vn/assets/images/logo.png
Thứ hai - 18/02/2013 02:54
Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son trả lời phỏng vấn báo chí
DIC - Nhân dịp đầu Xuân Quý Tỵ, các cơ quan báo chí gồm: Đài truyền hình Việt Nam, Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC, Thông tấn xã Việt Nam, truyền hình thành phố Hồ Chí Minh, báo Nhân dân, Hà Nội mới… đã có buổi phỏng vấn Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông Nguyễn Bắc Son về những thành tựu nổi bật của ngành năm 2012, những nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp của ngành năm 2013 và một số vấn đề nổi bật khác như sự phát triển của Internet, tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, Luật Xuất bản sửa đổi, truyền hình trả tiền… Dưới đây, Trang Thông tin điện tử Bộ Thông tin và Truyền thông trân trọng giới thiệu với độc giả nội dung cuộc phỏng vấn này.
Phóng viên (PV): Năm qua, phát triển kinh tế - xã hội trong nước gặp nhiều khó khăn, tình hình biên giới biển đảo cũng có diễn biến phức tạp… Xin Bộ trưởng cho biết ngành Thông tin và Truyền thông đã cùng cả nước vượt khó như thế nào và cũng xin Bộ trưởng cho biết những thành tựu nổi bật của ngành trong năm 2012? Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Trong năm 2012, ngành đã có đóng góp toàn diện và xứng đáng vào sự phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh - quốc phòng, bảo vệ chủ quyền biển đảo. Báo chí, xuất bản làm tốt nhiệm vụ là công cụ phục vụ hiệu quả sự chỉ đạo điều hành của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, tạo sự đồng thuận xã hội; phục vụ hiệu quả hoạt động đối ngoại, bảo vệ chủ quyền biển đảo; là lực lượng chủ lực xóa nghèo thông tin, nâng cao dân trí, thúc đẩy tiến bộ xã hội, an sinh xã hội. Viễn thông, Internet, công nghệ thông tin đã hình thành hạ tầng mềm cho ngày càng nhiều các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, nền tảng cho việc gắn kết và nâng cao hiệu quả khai thác các hạ tầng kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết số 13 của Hội nghị Trung ương IV, Khóa XI. Ứng dụng CNTT trong cơ quan quản lý nhà nước đóng góp tích cực cho cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính công minh bạch, hiện đại và hiệu quả. Trong năm 2012, ngành Thông tin và Truyền thông có thể tự hào đã cùng cả nước vượt qua khó khăn, thách thức và đã có những đóng góp xứng đáng vào kết quả chung về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo. Cụ thể: * Báo chí, xuất bản đã thực hiện tốt nhiệm vụ là phương tiện thông tin, tuyên truyền thiết yếu, là công cụ chỉ đạo, điều hành của Nhà nước, đóng vai trò quan trọng trong định hướng dư luận, tạo đồng thuận xã hội, làm cho nhân dân tin tưởng và ủng hộ các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng; pháp luật của Nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. - Hiện nay, cả nước có 812 cơ quan báo in với hơn 1084 ấn phẩm, 59 báo điện tử, 11 tạp chí điện tử, hơn 1000 trang thông tin điện tử tổng hợp, hàng trăm mạng xã hội trực tuyến đã thông tin kịp thời, đầy đủ tình hình kinh tế xã hội, an ninh - quốc phòng; phản ánh ý kiến, nguyện vọng của nhân dân; thông tin đầy đủ về bảo vệ chủ quyền biên giới, biển, đảo. - Báo chí, xuất bản nhất là 4 loại hình báo chí in – nói – hình – điện tử đã trở thành lực lượng chủ lực trong xoá nghèo về thông tin, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo; góp phần nâng cao dân trí; ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh, thúc đẩy tiến bộ xã hội…Trong thời kỳ bùng nổ công nghệ thông tin hiện nay, các loại hình báo chí, xuất bản rất đa dạng và đáp ứng ngày càng tốt hơn quyền thụ hưởng thông tin của người dân. - Báo chí, xuất bản điện tử là công cụ hữu hiệu cho hoạt động đối ngoại, bảo vệ chủ quyền quốc gia... khi đưa kịp thời và đầy đủ thông tin chính thống về Việt Nam đến với thế giới. * Trong lĩnh vực viễn thông, Internet, công nghệ thông tin, với tư duy quản lý phải theo kịp sự phát triển của xã hội và thúc đẩy cạnh tranh, ngành Thông tin và Truyền thông đã thành công trong việc phát triển một ngành kinh tế kỹ thuật mũi nhọn, đặc biệt đã hình thành được một hạ tầng mềm tạo môi trường hoạt động cho nhiều hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Đây chính là nền tảng cho việc gắn kết và nâng cao hiệu quả khai thác các hạ tầng kinh tế - xã hội theo tinh thần Nghị quyết số 13 của Hội nghị Trung ương IV, Khóa XI. - Về phổ cập dịch vụ viễn thông - Internet: Cả nước hiện có trên 31,2 triệu người sử dụng internet, đứng thứ 18/20 quốc gia có số người sử dụng internet lớn nhất thế giới. - Doanh nghiệp viễn thông kinh doanh hiệu quả và đóng góp lớn cho ngân sách: Trong bối cảnh hàng loạt doanh nghiệp thua lỗ, phá sản hoặc hoạt động cầm chừng, 2 tập đoàn viễn thông chủ lực của Nhà nước là VNPT và Viettel vẫn đạt tăng trưởng tốt, đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước. VNPT đạt doanh thu trên 130 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận đạt trên 8,5 nghìn tỷ đồng, nộp ngân sách 7,5 nghìn tỷ đồng. Doanh thu của Viettel là 141 nghìn tỷ đồng, lợi nhuận đạt 27.514 tỷ đồng và nộp ngân sách trên 11.377 tỷ đồng. Các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam đã làm chủ sân nhà. Mật độ thuê bao điện thoại đạt trên 100%. Dịch vụ viễn thông là dịch vụ duy nhất có giá dịch vụ ngày càng rẻ, góp phần thiết thực trong việc thực hiện cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam” với 100% người Việt trong nước dùng dịch vụ điện thoại của các doanh nghiệp viễn thông nước nhà. - Công nghiệp công nghệ thông tin xuất khẩu gần 20 tỷ USD (tương đương 417,1 nghìn tỷ đồng - PV): Cùng với viễn thông, công nghiệp công nghệ thông tin tiếp tục đóng góp lớn cho xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu máy vi tính, sản phẩm điện tử, linh kiện, điện thoại và các loại linh kiện,… đạt hơn 18 tỉ USD (tương đương 375,4 nghìn tỷ đồng - PV). - Ứng dụng công nghệ thông tin cải cách hành chính: Ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước tiếp tục được đẩy mạnh. Đến nay, 100% các Bộ, tỉnh đã có Cổng thông tin điện tử trực tuyến cung cấp thông tin và dịch vụ công phục vụ người dân và doanh nghiệp. Qua đó, ứng dụng công nghệ thông tin đã đóng góp thiết thực cho đổi mới phương thức làm việc, hướng tới nền hành chính công minh bạch và hiệu quả. Theo báo cáo đánh giá Chính phủ điện tử năm 2012 của Liên hiệp quốc, xếp hạng của Việt Nam tăng 7 bậc, đứng thứ 83 thế giới, thứ 4 Đông Nam Á, thứ 9 Châu Á. PV: Trong thông điệp đầu năm 2013 Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã có bài viết “Kiên quyết khắc phục yếu kém, vượt qua khó khăn, tiếp tục kiềm chế lạm phát, bảo đảm tăng trưởng, đưa đất nước phát triển bền vững”. Theo tinh thần chỉ đạo của Thủ tướng, xin Bộ trưởng cho biết những nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp của ngành Thông tin và Truyền thông trong năm 2013. Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Trong bối cảnh kinh tế thế giới chưa có dấu hiệu phục hồi rõ rệt, năm 2013 nhiều khả năng tiếp tục là một năm khó khăn cho nền kinh tế, trong đó có ngành Thông tin và Truyền thông. Đây cũng là năm thứ ba, năm bản lề trong việc thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI và Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015. Vì vậy, toàn ngành Thông tin và Truyền thông sẽ nghiêm túc quán triệt tinh thần chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ trong Thông điệp đầu năm, cũng như 9 nhiệm vụ, giải pháp trong Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ cụ thể: 1- Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước; tạo sự đồng thuận và quyết tâm cao trong triển khai thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch năm 2013. - Kịp thời tuyên truyền các giải pháp của Chính phủ trong điều hành kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với 9 nhiệm vụ, giải pháp như Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 7/1/2013 của Chính phủ; tuyên truyền về những sự kiện quan trọng của đất nước và quốc tế; tuyên truyền đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển đảo và các nhiệm vụ an ninh quốc phòng. 2- Chủ động trong việc cung cấp thông tin chính thống kịp thời và đầy đủ; tích cực phát triển nội dung lành mạnh trên mọi phương tiện thông tin và truyền thông theo phương châm “lấy cái đẹp dẹp cái xấu”; ngăn chặn có hiệu quả việc lợi dụng các phương tiện thông tin và truyền thông, đặc biệt là Internet cho những mục đích xấu. 3- Nâng cao vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia hoạt động báo chí, theo đó các cơ quan báo chí phải bám sát hơn mục đích tôn chỉ; các nhà báo tiếp tục nâng cao trách nhiệm công dân và đạo đức nghề nghiệp, các cơ quan tổ chức thực hiện tốt nghĩa vụ cung cấp thông tin và trách nhiệm giải trình với xã hội; các cơ quan có thẩm quyền phối hợp chặt chẽ và có phản ứng nhất quán và kịp thời trước các sự kiện xã hội quan tâm; người dân nâng cao tri thức và văn hóa trong sử dụng thông tin và bày tỏ chính kiến… 4- Tăng cường quản lý thông tin trên Internet, trò chơi trực tuyến (game online), SIM trả trước, tin nhắn rác để tạo lập môi trường Internet và viễn thông ngày càng tin cậy với người sử dụng, cạnh tranh lành mạnh và phát triển bền vững, tạo cuộc sống bình yên trong đời sống thực cũng như trên môi trường mạng. 5- Tiếp tục củng cố và tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về hiệu quả khai thác ứng dụng hạ tầng thông tin trong cơ quan nhà nước và toàn xã hội. Khai thông các nguồn lực trong xã hội cho đầu tư phát triển hạ tầng thông tin theo tinh thần Nghị quyết số 13 của Hội nghị Trung ương 4 Khóa XI, đặc biệt là hạ tầng băng rộng, nội dung số, một số cơ sở dữ liệu trọng điểm quốc gia về dân cư, đất đai,… . 6- Thực hiện tốt vai trò đại diện chủ sở hữu tại các doanh nghiệp nhà nước. Chỉ đạo tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước thuộc lĩnh vực Thông tin và Truyền thông theo Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/07/2012 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị định số 99/2012/NĐ-CP ngày 15/11/2012 của Chính phủ theo hướng mô hình tổ chức tinh gọn, phương thức quản trị tiên tiến, tạo cơ chế cho doanh nghiệp năng động và tự chủ trong sản xuất, kinh doanh. PV: Viễn thông, Internet thời gian qua đã phát triển rất nhanh, được xã hội đánh giá cao nhưng đồng thời xã hội cũng đang khá lo ngại về một số hệ lụy của sự phát triển quá nóng như tin nhắn rác, lừa đảo qua tin nhắn và trên mạng, bán thông tin cá nhân, lạm dụng tự do trên Internet để chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc,… Xin Bộ trưởng cho biết nỗ lực cải thiện tình hình này trong thời gian tới? http://mic.gov.vn/tintucsukien/tintonghop/PublishingImages/20130206-o2-aSon.jpg Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Đúng là an toàn, an ninh thông tin đang trở thành một thách thức lớn và lâu dài cho sự phát triển bền vững và hiệu quả hạ tầng thông tin ở nước ta. Đây là một trong những yếu tố then chốt quyết định thành công của chính phủ điện tử, thương mại điện tử... Việc đảm bảo an toàn an ninh thông tin cũng là đảm bảo an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội; đảm bảo quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, cá nhân sử dụng; đảm bảo môi trường đầu tư kinh doanh hấp dẫn. Tôi cho rằng, sự phát triển với tốc độ chóng mặt của viễn thông, Internet và các ứng dụng trên nó, nhất là các ứng dụng về truyền thông xã hội như diễn đàn, mạng xã hội và blog... một mặt đã góp phần đáp ứng nhu cầu chính đáng về chia sẻ thông tin và giao tiếp cá nhân của cộng đồng nhưng nó cũng rất dễ bị lợi dụng để thực hiện các hoạt động phi pháp. Trong đa số trường hợp người sử dụng không bắt buộc phải định danh thật và có thể ở các nước khác nhau với hệ thống luật lệ thể chế khác nhau nên việc xử lý các hành vi vi phạm là hết sức khó khăn. Tuy nhiên, với tư duy quản lý phải theo kịp sự phát triển và hướng tới thúc đẩy sự phát triển lành mạnh của hạ tầng thông tin, Việt Nam đã nhất quán chính sách thúc đẩy việc sử dụng viễn thông, Internet trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội, góp phần tăng năng suất lao động, tạo việc làm và nâng cao chất lượng cuộc sống. Mặt khác, Việt Nam kiên quyết áp dụng mọi biện pháp trong khả năng để ngăn chặn những hành vi lợi dụng viễn thông, Internet gây ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, vi phạm đạo đức, thuần phong mỹ tục và vi phạm các quy định pháp luật; có các biện pháp bảo vệ trẻ em, thanh thiếu niên khỏi tác động tiêu cực của Internet... Trong năm 2012, Bộ Thông tin và Truyền thông đã chủ trì xây dựng, ban hành một số văn bản pháp quy quan trọng, tạo dựng hành lang pháp lý quản lý đồng bộ để hạn chế tin nhắn rác, SIM rác như: - Nghị định số 77/2012/NĐ-CP về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 90/2008/NĐ-CP về chống thư rác; - Thông tư số 04/2012/TT-BTTTT về quản lý thuê bao di động trả trước; - Thông tư số 14/2012/TT-BTTTT về quản lý giá cước dịch vụ thông tin di động mặt đất; - Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định số 97/2008/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet (đã trình Thủ tướng Chính phủ). Điểm nhấn quan trọng của các văn bản pháp quy này đối với hoạt động quản lý tin nhắn rác, SIM rác là sự kết hợp đồng bộ giữa biện pháp hành chính (cá nhân phải cung cấp thông tin cá nhân thật khi sử dụng dịch vụ) với biện pháp kinh tế (quản lý giá cước trên cơ sở giá thành, tách bạch giữa cước hoà mạng di động và cước sử dụng dịch vụ di động, quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên kho số). Nghị định 97/2008/NĐ-CP sửa đổi cũng sẽ quy định rõ hơn quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ, thông tin trên mạng và của người sử dụng Internet. Tuy nhiên cũng phải nói thêm rằng hiệu quả của các biện pháp mới phụ thuộc rất nhiều vào việc sớm xây dựng và khai thác cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Bộ Thông tin và Truyền thông đã đề nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo Bộ Công an thực hiện khẩn trương hơn nhiệm vụ này. Hoạt động đảm bảo an toàn an ninh thông tin sẽ tiếp tục là mối quan tâm của Bộ Thông tin và Truyền thông trong những năm tới. Trước mắt, Bộ sẽ đẩy nhanh tiến độ hoàn thành dự thảo Luật An toàn thông tin số để Chính phủ có thể trình Quốc hội xem xét thông qua trong năm 2014. Dự kiến, Luật sẽ có quy định đảm bảo an toàn cho hệ thống và hạ tầng thông tin trọng yếu; quản lý và chia sẻ thông tin số; bảo vệ thông tin cá nhân, thông tin riêng trên mạng; chống thư rác và tin nhắn rác; quy định về lọc nội dung thông tin số trên mạng... PV: Năm 2012, thị trường viễn thông Việt Nam chứng kiến một số biến động như mua bán và sáp nhập doanh nghiệp, rút khỏi thị trường, khuyến mại “khủng”,... Năm 2013 Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ phải triển khai Quy hoạch viễn thông quốc gia đến năm 2020 đồng thời với thực hiện Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực thông tin truyền thông. Xin Bộ trưởng cho biết việc này sẽ tác động như thế nào đến thị trường viễn thông, công nghệ thông tin trong năm 2013? Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Năm qua, thị trường viễn thông Việt Nam có những biến động đáng chú ý như EVN Telecom chuyển về Viettel, Công ty VimpelCom (Nga) rút vốn khỏi Công ty Cổ phần viễn thông di động toàn cầu GTel; một số giấy phép viễn thông bị thu hồi; xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh thông qua khuyến mại trái phép... Nguyên nhân chủ yếu là thị trường viễn thông đã rất cạnh tranh, kinh tế lại đang gặp khó khăn nên một số doanh nghiệp đã không thể duy trì được hoạt động kinh doanh. Mặt khác, quản lý nhà nước về viễn thông nói riêng và quản lý đầu tư công của nhà nước nói chung được tăng cường nên không có chỗ đứng cho các doanh nghiệp yếu kém cho dù là doanh nghiệp nhà nước. Những biến động này của thị trường phù hợp với định hướng phát triển bền vững thị trường viễn thông theo Quy hoạch phát triển viễn thông quốc gia đến 2020 đã được Thủ tướng ban hành. Trong năm 2013, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ đẩy mạnh thực hiện Quy hoạch, trong đó có tái cơ cấu các doanh nghiệp nhằm hình thành ít nhất 3-4 doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao trên mỗi thị trường quan trọng như di động, Internet băng rộng, cố định đường dài trong nước và quốc tế. Đến nay, các doanh nghiệp có hạ tầng mạng- nhóm doanh nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu dịch vụ và doanh thu trên thị trường - là doanh nghiệp nhà nước nên tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước trong lĩnh vực viễn thông đồng nghĩa với cơ cấu lại phần lớn thị trường viễn thông. Việc tái cơ cấu sẽ bám sát mục tiêu nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bằng nhiều biện pháp trong đó có tạo điều kiện cho việc mua bán, sáp nhập, thu hồi giấy phép, tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh kém hiệu quả. Bộ sẽ tăng cường công tác thực thi trong cấp giấy phép, quản lý kết nối, giá cước, kho số, khuyến mại; đẩy mạnh thanh tra, kiểm tra, xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh... Các biện pháp quản lý sẽ duy trì và thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh song song với việc hỗ trợ đầu tư phát triển viễn thông công ích phục vụ các vùng sâu, vùng xa và các đối tượng mà cơ chế thị trường hoạt động không hiệu quả. Vì vậy, tôi cho rằng, trong năm 2013 xu hướng chủ đạo của thị trường viễn thông là phát triển bền vững, hướng tới hiệu quả, chất lượng, cạnh tranh lành mạnh. PV: Tại Hội nghị triển khai Nghị quyết số 13 của Hội nghị Trung ương IV, Khóa XI về phát triển hạ tầng thông tin, đánh giá về vai trò của ứng dụng thông tin và truyền thông Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải đã đưa ra quan điểm “Phi tin bất phú”. Quan điểm này cho thấy sự cấp thiết phải triển khai thành công Đề án sớm đưa Việt Nam trở thành nước mạnh về công nghệ thông tin, Chương trình ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước và Chương trình mục tiêu quốc gia đưa thông tin về cơ sở. Xin Bộ trưởng cho biết liệu có các giải pháp bứt phá nào về ứng dụng công nghệ thông tin trong năm 2013 không khi mà đánh giá sơ bộ 2 năm vừa qua cho thấy những kết quả rất khiêm tốn? Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Tại Nghị quyết số 13 của Hội nghị Trung ương IV, Khóa XI, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nhấn mạnh “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý, khai thác, vận hành hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và toàn bộ nền kinh tế. Coi thúc đẩy phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu trong lộ trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa từng ngành, từng lĩnh vực”. Bằng sự nỗ lực của các cấp, các ngành, việc ứng dụng CNTT trong thời gian qua đã đạt được những những kết quả quan trọng, đặc biệt là ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước, góp phần nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động, thúc đẩy cải cách hành chính. Theo đánh giá xếp hạng của Liên hợp quốc, trong những năm qua vị trí xếp hạng về phát triển Chính phủ điện tử của Việt Nam ngày càng được cải thiện, từ vị trí 91/182 năm 2008 đã vươn lên vị trí 90/190 năm 2010 và vị trí 83/190 năm 2012. Trong khu vực Đông Nam Á, hiện Việt Nam xếp thứ 4/11 nước, chỉ sau Singapore, Malaysia, Brunei. Mặc dù vậy, ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước vẫn còn nhiều việc phải làm. Ứng dụng CNTT trong nội bộ cơ quan nhà nước chủ yếu quy mô nhỏ, chưa phát huy hết hiệu quả của ứng dụng CNTT. Các hệ thống thông tin quy mô quốc gia tạo nền tảng cho phát triển Chính phủ điện tử chưa được triển khai, ứng dụng CNTT phục vụ người dân và doanh nghiệp còn hạn chế, các trang thông tin điện tử chủ yếu mới chỉ cung cấp thông tin, còn ít trường hợp người dân có thể nộp hồ sơ xin cấp phép, đăng ký qua mạng. Nguyên nhân chính của các hạn chế này bao gồm: - Kinh phí đầu tư cho ứng dụng CNTT còn hạn hẹp, mới đáp ứng khoảng 10% nhu cầu vốn của các dự án đã được xây dựng. Đến nay, chưa có mục (loại) chi riêng cho ứng dụng CNTT nên không có nguồn kinh phí ổn định cho ứng dụng CNTT. - Một số cán bộ lãnh đạo chưa gương mẫu, chỉ đạo sát sao, quyết liệt ứng dụng CNTT nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả hoạt động. - Việc chuyển đổi phương thức làm việc hiện nay chủ yếu sử dụng văn bản giấy sang phương thức chủ yếu sử dụng văn bản điện tử, giao dịch trên môi trường mạng đòi hỏi phải có thời gian để cán bộ, công chức chuyển đổi thói quen làm việc. Để tạo những bứt phá ứng dụng CNTT, phát triển chính phủ điện tử trong thời gian tới, Bộ Thông tin và Truyền thông sẽ phối hợp với các Bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai các giải pháp nhằm khắc phục các hạn chế vừa nêu, bao gồm: Một là, tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức về ứng dụng CNTT: Mở đợt tuyên truyền, vận động sâu rộng về lợi ích của ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước. Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bộ Chính trị (Chỉ thị 58): “phát triển và ứng dụng CNTT là động lực quan trọng nhất của sự phát triển”. Hai là, xác định rõ trách nhiệm người đứng đầu: Có những hành động thiết thực để có được sự quan tâm, sự cam kết của người đứng đầu cơ quan nhà nước trong việc đẩy mạnh ứng dụng CNTT. Ba là, huy động tập trung nguồn lực cho ứng dụng CNTT: Ở cấp Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông đã có công văn đề nghị Thủ tướng Chính phủ sửa đổi Quyết định số 60/2010/QĐ-TTg ngày 30/9/2010 của Thủ tướng Chính phủ ban hành các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư phát triển bằng nguồn ngân sách nhà nước giai đoạn 2011-2015, trong đó có đề nghị vốn bổ sung có mục tiêu từ ngân sách Trung ương cho Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan nhà nước giai đoạn 2011-2015 theo Quyết định số 1605/QĐ-TTg nhằm hỗ trợ kinh phí từ Trung ương cho các địa phương triển khai Quyết định này. Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc các Bộ, ngành, địa phương trong việc triển khai ứng dụng CNTT. Trước hết là kiểm tra, đôn đốc việc triển khai Nghị định 102/2009/NĐ-CP của Chính phủ về quản lý đầu tư ứng dụng CNTT sử dụng vốn ngân sách nhà nước; Chỉ thị số 15/CT- TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sử dụng văn bản điện tử trong hoạt động của cơ quan nhà nước; Chỉ thị số 34/2008/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường sử dụng hệ thống thư điện tử trong cơ quan nhà nước; Nghị định 43/2011/NĐ-CP của Chính phủ về cung cấp thông tin và dịch vụ công trực tuyến trên trang/cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước; … http://mic.gov.vn/tintucsukien/tintonghop/PublishingImages/20130206-o3-aSon.jpg PV: Thưa Bộ trưởng, ngày 20/11/2012 Quốc hội đã thông qua Luật Xuất bản (có thể gọi là Luật Xuất bản 2012). Xin Bộ trưởng cho biết một số điểm khác cơ bản trong nội dung Luật Xuất bản 2012 so với Luật hiện hành và những nội dung ấy sẽ tác động thế nào tới hoạt động xuất bản? Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Tại kỳ họp thứ 4 vừa qua, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật Xuất bản 2012, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2013. Trong Luật xuất bản 2012, có một số điểm mới đáng chú ý và khác biệt cơ bản so với Luật hiện hành như sau: 1. Về đối tượng được thành lập và loại hình tổ chức của nhà xuất bản So với Luật hiện hành, Luật xuất bản năm 2012 đã thống nhất quy định cụ thể hơn về đối tượng được thành lập nhà xuất bản, gồm: “Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương và cấp tỉnh; Đơn vị sự nghiệp công lập ở trung ương, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp ở trung ương trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm và tài liệu khoa học, học thuật.” Về loại hình tổ chức của nhà xuất bản, Luật mới quy định gồm 2 loại: “(1) Đơn vị sự nghiệp công lập (thay cho đơn vị sự nghiệp có thu quy định tại Luật hiện hành) và (2) doanh nghiệp kinh doanh có điều kiện do Nhà nước là chủ sở hữu” để cho bao quát và đầy đủ hơn, bảo đảm tính chủ sở hữu của Nhà nước đối với nhà xuất bản. Với quy định này, Luật đã thể hiện rõ về quan điểm nhằm mục đích nâng cao chất lượng hoạt động của nhà xuất bản một cách có định hướng, xác định rõ vị trí pháp lý của nhà xuất bản, đồng thời tránh sự phát triển về số lượng nhưng không đem lại hiệu quả thiết thực. 2. Quy định cụ thể về tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn đối với các chức danh lãnh đạo nhà xuất bản, biên tập viên Trong Luật mới này, các tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của tổng giám đốc (giám đốc), tổng biên tập và biên tập viên được quy định cụ thể hơn nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ lãnh đạo nhà xuất bản, biên tập viên; xác định trách nhiệm pháp lý của đội ngũ này một cách rõ ràng hơn (ví dụ: đối với biên tập viên phải có chứng chỉ hành nghề biên tập, phải tham gia các khóa tập huấn, bồi dưỡng kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, về chính trị,…). Các quy định của Luật nhằm mục đích là các chức danh này phải được chuẩn bị nền tảng vững chắc về nguồn nhân lực cho ngành xuất bản. Bên cạnh đó, Luật cũng có quy định về việc phát huy nội lực và đẩy mạnh liên kết trong hoạt động xuất bản bằng những quy định, điều kiện, nguyên tắc rõ ràng hơn để huy động nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động xuất bản nhưng vẫn tăng cường và bảo đảm được chất lượng xuất bản phẩm theo định hướng của Đảng và Nhà nước. 3. Cụ thể hóa, bổ sung các hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản Luật Xuất bản 2012 đã được cụ thể hóa và bổ sung các hành vi bị cấm trong hoạt động xuất bản đã diễn ra trong thực tiễn thời gian qua, gây tác động và ảnh hưởng xấu đến hoạt động xuất bản (ví dụ: in lậu, in giả, in nối bản trái phép xuất bản phẩm). Qua đó, Luật tạo khung pháp lý căn bản và nền tảng để nhằm ngăn chặn, đấu tranh một cách tích cực hơn nữa các vi phạm đã và đang làm suy kiệt ngành xuất bản ngày một trầm trọng... 4. Các chính sách của Nhà nước hỗ trợ cho hoạt động xuất bản Đây là một trong số những điểm quan trọng đã được quy định trong Luật, thể hiện sự quan tâm của Nhà nước đối với hoạt động xuất bản. Cụ thể là Luật đã quy định các chính sách hỗ trợ cụ thể cho ngành xuất bản theo hướng khả thi hơn, nhắm đến những nhiệm vụ, địa bàn, đối tượng cụ thể của hoạt động xuất bản như đối với các đơn vị xuất bản, in, phát hành thực hiện nhiệm vụ phục vụ an ninh, quốc phòng, thông tin đối ngoại, đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo,… 5. Tạo khung pháp lý mới cho hoạt động xuất bản và phát hành xuất bản phẩm điện tử Trước sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin và truyền thông, quá trình xuất bản và phát hành xuất bản phẩm điện tử còn có nhiều thay đổi, khó dự báo trước. Mặt khác, trong hoạt động xuất bản điện tử, xuất bản phẩm không cần phải in (nhân bản) mà có thể phát hành ngay trên phương tiện điện tử hoặc việc in (nhân bản) diễn ra sau khi xuất bản phẩm điện tử được phát hành (ví dụ: tải từ Internet để in). Trong Luật Xuất bản 2012 lần này, một điểm đặc biệt đó là đã có thêm một chương so với Luật hiện hành về quản lý xuất bản và phát hành xuất bản phẩm điện tử. Nội dung chủ yếu của Chương quy định đối với nhà xuất bản và tổ chức, cá nhân phát hành xuất bản phẩm điện tử phải: - Bảo đảm các điều kiện về năng lực thiết bị, công nghệ để thực hiện xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử và để ngăn chặn việc sao chép, can thiệp bất hợp pháp vào nội dung xuất bản phẩm điện tử nhằm quản lý hoạt động này một cách hiệu quả hơn. - Bảo đảm xuất bản phẩm đã được xuất bản, in, phát hành hợp pháp được phát hành trên các phương tiện điện tử. - Tuân thủ cách thức thực hiện đối với tác phẩm, tài liệu xuất bản lần đầu theo phương thức xuất bản điện tử phải thông qua nhà xuất bản hoặc phải được cơ quan quản lý nhà nước về xuất bản cấp giấy phép xuất bản theo quy định tại Điều 25 của Luật này. - Việc xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử chỉ được thực hiện sau khi có văn bản chấp thuận của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. - Việc chuyển xuất bản phẩm điện tử sang xuất bản phẩm in để phổ biến tới nhiều người phải tuân thủ các quy định của Luật này và pháp luật về sở hữu trí tuệ. Đây là một Chương quy định mới, chưa có tiền lệ và kinh nghiệm nhiều trên thế giới. Luật đề ra những vấn đề cơ bản có tính nguyên tắc nhằm tạo khung phát triển pháp lý có tính ổn định lâu dài đối với một hoạt động có tính năng động cao. Đồng thời, Luật cũng quy định linh hoạt theo hướng giao cho cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản ban hành các quy định cụ thể theo từng giai đoạn phát triển của công nghệ để quản lý hoạt động này một cách có hiệu quả, nhằm vừa tạo điều kiện để những yếu tố tích cực có điều kiện phát huy, vừa chấn chỉnh những lệch lạc, tiêu cực có hại cho xã hội cần phải được hạn chế một cách tối đa. PV: Thời gian gần đây thị trường truyền hình trả tiền phát triển khá sôi động như thị trường viễn thông 10 năm trước. Được biết Bộ Thông tin và Truyền thông đang triển khai Quy hoạch truyền dẫn phát sóng phát thanh truyền hình, Đề án số hóa truyền hình Việt Nam. Bộ Thông tin và Truyền thông cũng mới trình Thủ tướng Quy hoạch dịch vụ truyền hình Việt Nam và đang hoàn chỉnh Quy hoạch báo chí Việt Nam đến 2020. Xin Bộ trưởng cho biết định hướng phát triển thị trường dịch vụ truyền hình trả tiền trong thời gian tới ? Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Việc cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền Việt Nam đã được áp dụng chủ trương xã hội hóa để thu hút, khai thác hiệu quả các nguồn lực xã hội. Nhờ vậy, sau 10 năm phát triển 63 tỉnh, thành phố đều đã có dịch vụ truyền hình cáp, truyền hình qua Internet IPTV và 100% lãnh thổ Việt Nam có thể sử dụng dịch vụ truyền hình qua vệ tinh DTH. Trung bình mỗi hệ thống dịch vụ truyền hình trả tiền cung cấp từ 50 – 70 kênh chương trình trong và ngoài nước. Có kênh chương trình phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền thiết yếu, có kênh chương trình quảng bá, có kênh chương trình chuyên biệt. Hầu hết các kênh chương trình truyền hình nước ngoài nổi tiếng trên thế giới đều đã có mặt tại Việt Nam. Dịch vụ truyền hình trả tiền không chỉ đáp ứng tốt nhu cầu thông tin và giải trí ngày càng đa dạng của người dân mà đã từng bước trở thành ngành kinh tế truyền thông có doanh thu khá cao, đóng góp không nhỏ cho ngân sách nhà nước và tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động. Bên cạnh những mặt tích cực, sự phát triển “nóng” của thị trường truyền hình trả tiền trong giai đoạn vừa qua cũng đã bộc lộ một số hạn chế. Cụ thể, do không được quy hoạch từ đầu nên việc phát triển dịch vụ truyền hình trả tiền, đặc biệt là truyền hình cáp, còn manh mún, tự phát, còn sử dụng công nghệ lạc hậu. Thị trường truyền hình trả tiền mới chỉ tập trung ở khu vực thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ chưa tiếp cận được với người dân ở vùng nông thôn, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Giá thành và chất lượng dịch vụ chưa được kiểm soát tốt. Số lượng kênh chương trình nhiều song chất lượng chưa cao, các chương trình mới và hấp dẫn chưa nhiều. Việc xã hội hóa thiếu chọn lọc, có nơi có lúc xảy ra tình trạng khoán trắng dẫn đến tình trạng chất lượng một số chương trình, kênh chương trình kém, hiệu quả xã hội và hiệu quả kinh tế rất thấp. Một số doanh nghiệp có hiện tượng độc quyền, tăng giá. Kênh chương trình nước ngoài chưa được chọn lọc kỹ, một số kênh chương trình có chất lượng không cao về chính trị, văn hóa, khoa học,…. ảnh hưởng không tốt đến nhận thức tư tưởng, lối sống của người dân, ảnh hưởng đến thuần phong mỹ tục và bản sắc văn hóa dân tộc. Cơ cấu kênh chương trình trong nước và ngoài nước chưa hợp lý chưa thúc đẩy phát triển công nghiệp nội dung trong nước. Để phát huy những mặt tích cực, khắc phục một số bất cập trong quá trình phát triển thị trường dịch vụ truyền hình trả tiền, Bộ Thông tin và Truyền thông đã xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành một số Quy hoạch. Đây là những cơ sở pháp lý quan trọng, mang tính đồng bộ để phát triển ngành truyền hình nói chung và thị trường dịch vụ truyền hình trả tiền nói riêng, theo hướng bền vững, công nghệ hiện đại, chất lượng dịch vụ cao. Cụ thể, mục tiêu của Quy hoạch báo chí Việt Nam đến năm 2020 là sắp xếp lại cả 4 loại hình báo chí, gồm báo in, báo nói, báo hình và báo điện tử, thành một hệ thống chặt chẽ, thống nhất từ Trung ương xuống địa phương, nhằm phục vụ nhiệm vụ chính trị thông tin tuyên truyền một cách hiệu quả nhất; đáp ứng nhu cầu thông tin giải trí của xã hội một cách đầy đủ nhất. Mục tiêu của Quy hoạch truyền dẫn phát sóng và Đề án Số hóa truyền hình Việt Nam đến năm 2020 là thay thế hoàn toàn hệ thống phát sóng truyền hình mặt đất công nghệ tương tự hiện tại bằng hạ tầng truyền dẫn phát sóng truyền hình số mặt đất vào năm 2020. Khi đó, người dân sẽ được xem các chương trình trình truyền hình với chất lượng hình ảnh và âm thanh tốt hơn; số lượng các chương trình truyền hình cũng nhiều hơn; đồng thời có thể tích hợp cả dịch vụ phát thanh, truyền hình với các kênh truyền hình độ phân giải cao và nhiều dịch vụ giá trị gia tăng phong phú. Theo Quy hoạch này sẽ hình thành thị trường truyền dẫn phát sóng truyền hình mặt đất kỹ thuật số với 3 mạng phát sóng có quy mô toàn quốc và 5 mạng phát sóng có quy mô khu vực, sử dụng chung để truyền tải tất cả các kênh truyền hình quảng bá của các đài truyền hình trung ương và địa phương hiện nay. Các đài phát thanh, truyền hình trên toàn quốc sẽ từng bước chuyển đổi mô hình tổ chức để tập trung vào nhiệm vụ sản xuất và nâng cao chất lượng nội dung chương trình. Việc dùng chung hạ tầng phát sóng kỹ thuật số của quốc gia/khu vực sẽ giúp các đài tiết kiệm nguồn nhân lực và chi phí rất lớn để vận hành hệ thống phát sóng. Để bảo đảm quyền lợi chính đáng của đại đa số người dân, việc số hóa truyền hình sẽ thực hiện từng bước, tùy theo điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của từng vùng và có biện pháp hỗ trợ người dân chuyển sang dùng đầu thu truyền hình số. Đối với thị trường dịch vụ truyền hình trả tiền, một trong những định hướng phát triển là sắp xếp lại hệ thống truyền hình trả tiền hiện có, đặc biệt là truyền hình cáp tương tự nhằm khắc phục tình trạng manh mún, dàn trải; hình thành thị trường dịch vụ phát thanh, truyền hình trả tiền cạnh tranh lành mạnh theo cơ chế thị trường, phát triển bền vững với công nghệ hiện đại, có lộ trình chuyển hoàn toàn sang phát thanh, truyền hình số vào năm 2020, nội dung chương trình phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc; chất lượng dịch vụ ngày càng cao và giá dịch vụ phù hợp; từng bước hình thành những doanh nghiệp lớn, có năng lực, bảo đảm cung cấp dịch vụ chất lượng trên diện rộng và có khả năng vươn ra khu vực và thế giới; huy động nguồn lực xã hội vừa góp phần phục vụ nhiệm vụ chính trị, thông tin tuyên truyền, vừa đáp ứng nhu cầu giải trí ngày càng đa dạng của người dân. Một trong những giải pháp quan trọng mà Bộ xác định để phát triển thị trường và nâng cao chất lượng dịch vụ truyền hình trả tiền là bên cạnh việc hoàn thiện môi trường pháp lý cần tăng cường công tác cấp phép, thanh tra kiểm tra xử phạt sau cấp phép, kiểm soát chất lượng thiết bị và dịch vụ. PV: Xuân Quý Tỵ đang gõ cửa từng gia đình Việt Nam, trước thềm Xuân mới, Bộ trưởng có thông điệp hay lời chúc gì với khán thính giả truyền hình và với toàn ngành Thông tin và Truyền thông? Bộ trưởng Nguyễn Bắc Son: Năm 2012, trong điều kiện khó khăn, nhiều thách thức, song Bộ Thông tin và Truyền thông đã hoàn thành nhiệm vụ, chức năng quản lý nhà nước trên cả 5 lĩnh vực báo chí, xuất bản, bưu chính, viễn thông và CNTT. Để đạt được kết quả đó, bên cạnh sự quyết tâm, cố gắng của toàn thể cán bộ, công chức, viên chức trong toàn ngành, chúng tôi còn nhận được sự hưởng ứng, cổ vũ, giúp đỡ của toàn xã hội. Trước thềm Xuân Quý Tỵ 2013, thay mặt Bộ Thông tin và Truyền thông, tôi xin gửi đến tất cả các cấp, các ngành, các cơ quan chính quyền từ Trung ương đến địa phương và nhân dân cả nước lời cám ơn chân thành nhất và lời chúc “Năm mới sức khoẻ, hạnh phúc và nhiều thành công mới trong cuộc sống”.